Tên gọi Hàn Quốc

Bài chi tiết: Tên gọi Triều Tiên

Hai tên gọi khác nhau "Đại Hàn" và "Triều Tiên" khi dịch sang các ngôn ngữ phương Tây thì đều được dịch giống nhau. Ví dụ như trong tiếng Anh, "Đại Hàn" và "Triều Tiên" đều dịch là "Korea", trong tiếng Pháp đều dịch là "Corée", trong tiếng Nga đều dịch là "Корея" (chuyển tự Latin: Koreya)... vì chúng đều bắt nguồn từ tên gọi của Vương quốc Cao Ly, là quốc gia từng tồn tại trên bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392. Thời kỳ này, tên gọi Cao Ly đã được thông qua các thương nhân người Ả-rập mà lan rộng, truyền bá đến các quốc gia phương Tây.

Từ năm 1392, toàn bộ bán đảo Triều Tiên này nằm dưới sự cai trị của nhà Triều Tiên (Chosun). Kể từ đó, cái tên "Triều Tiên" được dùng làm quốc hiệu để chỉ chung cho toàn bộ dân tộc sinh sống ở tại trên bán đảo này. Sau khi hai miền đất nước bị chia cắt, vùng lãnh thổ phía bắc tiếp tục kế thừa quốc hiệu này nên gọi chính thể của mình là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên; trong khi đó vùng lãnh thổ phía nam chọn quốc hiệu "Đại Hàn Dân Quốc", kế thừa từ quốc hiệu "Đế quốc Đại Hàn" (Daehan) mà lãnh thổ này đã mang trong giai đoạn 1897-1910 (dưới sự đô hộ của Đế quốc Nhật Bản). Trong đó, chữ "Dân quốc" (chữ Hán: 民國) trong Đại Hàn Dân quốc (大韓民國) được vay mượn từ tiếng Trung Quốc, khi dịch sang các ngôn ngữ phương Tây thì được dịch tương đương như cộng hoà quốc (共和國, nước cộng hoà). Trong tiếng Anh, "Dân quốc" và "Cộng hoà quốc" đều được dịch là "Republic", trong tiếng Pháp đều được dịch là "République", trong tiếng Nga đều được dịch là "республика" (chuyển tự Latin: Respublika). Chính phủ Hàn Quốc tự coi mình là chính phủ hợp pháp và đại diện cho toàn bộ bán đảo nên họ gọi Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên là "Bắc Hàn" cũng như coi chính phủ này là đối địch và bất hợp pháp.

Việt Nam trước năm 1975, báo chí và truyền thông đại chúng của nước Việt Nam Cộng hòa (ở Miền Nam Việt Nam thống nhất ngày nay) gọi nước này là "Đại Hàn" hoặc "Đại Hàn Dân Quốc" và coi Seoul là chính phủ hợp pháp đại diện cho toàn bán đảo nên gọi bắc Triều Tiên là "Bắc Hàn" giống như cách gọi của Chính quyền Hàn Quốc. Sau năm 1975, tên gọi của nước này dần được chuyển dịch qua các ngôn ngữ phương Tây và tên gọi do chính quyền Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên gọi (mà chính quyền CHXHCN Việt Nam cũng ủng hộ) rồi dịch sang tiếng Việt mà thành "Cộng hoà Triều Tiên" hoặc "Nam Triều Tiên". Bằng công hàm số KEV-398 ngày 23 tháng 3 năm 1994 gửi Bộ Ngoại giao Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại sứ quán nước này đã đề nghị phía Việt Nam gọi chính thể của họ là Đại Hàn Dân quốc, gọi tắt là Hàn Quốc (từ "Hàn" ở đây không phải là "Lạnh", đó là ký âm tự của từ "Han" trong tiếng Hàn Quốc, nghĩa là "Lớn"), không gọi là Cộng hoà Triều Tiên hoặc Nam Triều Tiên, vì "Triều Tiên" gợi nhắc đến miền bắc (tức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên). Bộ Ngoại giao Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau đó ra công văn số 733/ĐBA-NG ngày 21 tháng 4 năm 1994 gửi các cơ quan bộ, tổng cục, các cơ quan thông tin, tuyên truyền và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam yêu cầu "Từ nay gọi Nam Triều Tiên là "Đại Hàn Dân Quốc", gọi tắt là "Hàn Quốc", không dùng các tên gọi cũ như Cộng hoà Triều Tiên, Nam Triều Tiên hay Nam Hàn nữa".[15]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hàn Quốc http://www.globalresearch.ca/south-koreas-armed-fo... http://www.rom.on.ca/news/releases/public.php?medi... http://chr.sagepub.com.ezproxy.library.ubc.ca/cont... http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2004-11/2... http://mistletoe.co/index.html http://www.allacademic.com/meta/p_mla_apa_research... http://www.ameinfo.com/66004.html http://www.brecorder.com/world/global-business-a-e... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/322280/S... http://english.chosun.com/site/data/html_dir/2010/...